GIỚI THIỆU VỀ ĐẤT NƯỚC HÀN QUỐC
Giới thiệu về đất nước Hàn Quốc. Các thông tin cơ bản về đât nước, con người, văn hóa kinh tế Hàn Quốc.

Tên nước: Đại Hàn Dân Quốc, gọi tắt là Hàn Quốc.
Tên chính thức tiếng Anh là Republic of Korea (ROK) (không gọi là Nam Hàn, Nam Triều Tiên, Cộng hòa Triều Tiên).
Thủ đô: Xơ-un (Seoul).
Vị trí địa lý: Ở phía Nam Bán đảo Triều Tiên; Đông, Tây, Nam giáp biển; Bắc giáp Triều Tiên qua giới tuyến quân sự chạy dọc vĩ tuyến 38o Bắc.
Diện tích: 99.392 km2 (toàn bán đảo: 222.154 km2)
Dân số (2017): 51.446.201 người
GDP (2017): 2.029 nghìn tỷ USD
GDP bình quân đầu người: 39.446 USD
Tiền tệ: Won (KRW)
Mã điện thoại: +82
Internet: .kr
Giao thông: bên phải
Tổng diện tích của Hàn Quốc là 99.678km2, đứng thứ 108 trên thế giới. Địa hình phân hoá thành hai vùng rõ rệt: vùng rừng núi chiếm khoảng 70% diện tích nằm ở phía Đông vùng đồng bằng duyên hải ở phía Tây và Nam. Bãi bồi ven biển Saemangeum là bãi bồi ven biển lớn thứ hai thế giới.
Thành phố lớn nhất của Hàn Quốc là Seoul, dân số chính thức khoảng trên 10 triệu người, nằm ở phía Tây Bắc Những thành phố lớn khác là: Incheon (Nhân Xuyên) ở phía Tây Seoul, Daejeon (Đại Điền) ở miền Trung, Kwangju (Quang Châu) ở phía Tây Nam, Daegu (Đại Khâu) và Busan (Phú San) ở phía Đông Nam.
Khí hậu: Hàn Quốc có khí hậu khá ôn hoà, có 4 mùa rõ rệt và mỗi mùa đều có sắc thái thời tiết riêng. Do địa hình gắn liền với lục địa Á châu nên Hàn Quốc bị ảnh hưởng khí hậu lục địa hơn là khí hậu vùng biển, nhưng lại ít khi có gió mùa Đông Siberia của vùng cực Bắc châu Á. Mùa đông tại Hàn Quốc kéo dài từ cuối tháng 11 đến tháng 2, trời khá lạnh khô và đôi khi đổ tuyết và nhiệt độ xuống tới âm 15-20°C. Nằm ở vành đai gió mùa Đông Á, Hàn Quốc có mùa hè nóng và ẩm kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8, nhiệt độ có thể lên tới 35°c. Thời gian này thường có mưa đá và vài cơn bão nhiệt đới với những trận mưa dai dẳng. Đây là thời gian tập trung một nửa lượng mưa của cả năm.
Ở Hàn Quốc, mùa xuân và mùa thu khá ngắn nhưng thời tiết lại rất dễ chịu. Hoa và các loại cây bắt đầu nảy nở trong tháng 4. Mùa xuân thường có nhiều gió và mùa thu bắt đâu từ tháng 9, trời xanh trong, là mùa thu hoạch và lễ hội.
Ngôn ngữ: Ở Hàn Quốc ngôn ngữ chính thức là tiếng Triều Tiên. Kể từ bậc tiểu học, người ta bắt đầu dạy tiếng Anh cho học sinh.
Kinh tế và văn hoá
Kinh tế: Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ ba ở châu Á và đứng thứ 10 trên thế giới theo GDP năm Sau chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nước giàu nhất. Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện dại. GDP bình quân đầu người của đất nước đã nhảy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỷ lục 10.000 USD vào năm 1995 và 25.000 USD vào năm 2007. Bất chấp các ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997, nước này đã khôi phục kinh tế rất nhanh chóng và vững chắc. Người ta thường nhắc đến sự phát triển thần kỳ về kinh tế của Hàn Quốc như là “Huyền thoại sông Hàn” đến nay huyền thoại này vẫn tiếp tục.
Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm. Một phân tích gần đây nhất bởi Goldman Sachs, năm 2007 đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành nước giàu thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD và 25 năm tiếp theo sẽ vượt qua tất cả các nước ngoại trừ Hoa Kỳ để trở thành nước giàu thứ hai trên thế giới, với GDP bình quân đầu người là 81.000 USD.
Năm 1996, Hàn Quốc trở thành thành viên của OEClD, một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của đất nước. Giống như các quốc gia phát triển khác, ngành dịch vụ tăng nhanh, chiếm khoảng 70% GDP. Cùng với sự phát triển về kinh tế, đời sống của nhân dân được nâng cao rất nhanh trở nên ngang bằng thậm chí cao hơn các quốc gia phát triển khác ở châu Âu và các nước Bắc Mỹ. Hiện nay thu nhập và tài sản của Hàn Quốc đang tăng một phần là do sự đầu tư và xuất khẩu công nghệ cao sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt Nam và Indonesia.
Văn hoá: “Y phục truyền thống của Hàn Quốc có tên là Hanbok”, được thiết kế phù hợp với sinh hoạt của người Hàn Quốc nhưng cũng là một biểu trưng cho văn hoá Hàn Quốc
Hàn phục được tạo nên bởi các đường sọc thẳng tạo hình rất đẹp, không những thế còn che lấp được những khuyết điểm của thân hình.

Trong thời kỳ Tam vương quốc, đàn ông mặc jeogori (áo khoác ngoài), baji (quần dài) và durumagi (áo choàng) cùng với mũ, dây lưng và giày. Phụ nữ mặc jeogori (áo khoác ngắn) với hai dải vải dài được buộc chặt vào nhau để tạo thành nơ otgoreum dài kín chân, mặc với chima (váy thắt eo cao), durumagi với beoseon (tất trắng) và đi giày hình thuyền. Nét đẹp của Hàn phục còn ở vẻ nhẹ nhàng bay lướt của những đường lượn với chiếc áo jeogori và baerae cho đến những chiếc tất chuyên dùng khi mặc hanbok gọi là beoseon. Những bộ quần áo này đã được lưu truyền từ nhiều năm nay với kiểu dáng hầu như không thay đổi, ngoài trừ chiều dài của jeogori và chima.
Nhà ở truyền thống của người Hàn Quốc gần như không thay đổi từ thời kỳ Tam Vương quốc cho đến cuối thời đại Joson (1392 – 1910). Vật liệu chính dùng để dựng nên những căn nhà truyền thống này là đất sét và gỗ. Nhà truyền thống thường được xây mà không cần sử dụng chiếc đinh nào vì được ghép với nhau bằng các chốt gỗ. Từ cuối những năm 1960, kiểu nhà truyền thống Hàn Quốc bắt đầu bị thay thế bằng những toà nhà chung cư theo kiểu phương Tây.
Hàn Quốc là một đất nước đa tôn giáo: Phật giáo chiếm 23,3%, Cơ đốc giáo chiếm 19,7%, Thiên Chúa giáo chiếm 6,6%, Nho giáo chiếm 0,5%, Viên Phật giáo (Phật giáo mới của Hàn Quốc) chiếm 0,2% và Thiên Đồ giáo 0,1%.
Văn hoá ẩm thực xứ Hàn rất phong phú, đa dạng. Mỗi món ăn truyền thống đều ít nhiều mang một bản sắc riêng. Trong bữa ăn của người Hàn Quốc, gạo vẫn là lương thực chính. Hàn Quốc không chỉ có các nguyên liệu đa dạng mà cách nấu ăn cũng vượt trội với nhiều loại món ăn tuỳ theo từng vùng và từng mùa. Đặc biệt, chủng loại các món ăn lên men như kim chi, tương được coi là những món ăn truyền thống lâu đời nhất của Hàn Quốc và là niềm tự hào của người dân Hàn Quốc với thế giới.
Lễ hội và trò chơi dân gian ở Hàn Quốc hết sức phong phú và đa dạng, được diễn ra trong suốt 12 tháng với nhiều lễ hội đặc sắc. Như Lễ hội Dano là một di sản văn hoá thế giới mới được công nhận. Đây là lễ hội đã có hơn 1000 năm, diễn ra vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm tại thành phố Gangneung thuộc tỉnh Gangwon. Ngoài ra còn có một số lễ hội lớn như Lễ hội Daeborum được tiến hành vào ngày trăng tròn đầu tiên trong năm sau ngày Seol; Lễ hội Đèn lồng là một trong 5 lễ hội độc đáo ở Hàn Quốc- Lễ hội bùn Poryong ở vùng duyên hải phía Tây Hàn Quốc, diễn ra từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 7 hàng năm, lễ hội này thu hút tới 10 triệu lượt du khách mỗi năm; Lễ hội Khiêu vũ Mặt nạ quốc tế…